Đánh giá của bạn về cổng thông tin điện tử
360 người đã bình chọn
1133 người đang online

Lịch sử hình thành huyện Ngọc Lặc

100%

I. Lịch sử hình thành

Ngọc Lặc là huyện ở phía Tây bắc tỉnh Thanh Hóa.

Theo sách địa chí và địa danh viết ở thời Lê và thời Nguyễn cũng như những di chi khảo cổ của các nhà khảo cổ học người Pháp từ những năm hai mươi của thế kỷ XX đã phát hiện ở Ngọc Lặc những di chỉ của cư dân cư trú thời đại đá mới (thuộc văn hoá Hòa Bình) trong các hang động như: Hang Mộc Trạch, Lộc Thịnh I và Lộc Thịnh II.

Vào thời văn hoá Đông Sơn, trên đất Ngọc Lặc đã phát hiện được các nhóm đồ đồng Đông Sơn gồm: Công cụ, vũ khí, trống đồng ở các xã Ngọc Khê qua di chỉ khảo cổ Mả Mè và núi Nú (Nguyện ấn).

Đến đầu công nguyên Ngọc Lặc thuộc vùng đất Đô Lung.

Thời thuộc Hán, Ngọc Lặc thuộc huyện Võ Biền.

Thời thuộc Tuỳ - Đường (581 - 905) miền đất Ngọc Lặc thuộc huyện Di Phong rồi huyện Trường Lâm đến tận thời Đinh - Tiền Lê - Lý.

Thời Trần - Hồ thuộc huyện Nga Lặc (tương đương với huyện Ngọc Lặc ngày nay và một phần đất huyện Thọ Xuân phía tả ngạn sông Chu)

Thời thuộc Minh nhập Nga Lặc với Lôi Giang gọi là huyện Nga Lạc (tức huyện Ngọc Lặc và huyện Cẩm Thuỷ ngày nay).

Thời Hậu Lê năm Quang Thuận thứ 10 (1469) Ngọc Lặc thuộc huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên.

Thời Nguyễn là phần đất của huyện Thụy Nguyên. Năm Thành Thái thứ 12 (1900) cắt tổng Ngọc Lặc và các xã Người Mường thuộc tổng Yên Trường, Quảng Thi (huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hoá) thành lập châu Ngọc, sau đó là châu Ngọc Lặc.

Sau cách mạng tháng tám (1945) bỏ "châu" đổi thành huyện Ngọc Lặc.

Ngày 05 tháng 7 năm 1977 theo quyết định 177-CP của Hội đồng chính phủ sát nhập hai huyện Ngọc Lặc và huyện Lang Chánh gọi là huyện Lương Ngọc.

Ngày 30 tháng 8 năm 1982 theo quyết định số 149-HĐBT của Hội đồng bộ trưởng chia huyện Lương Ngọc thành hai huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc. Huyện Ngọc Lặc giữ nguyên tên gọi đến ngày nay.

Như vậy, miền đất Ngọc Lặc trải qua nhiều thời kỳ chia tách, sát nhập, thay đổi tên gọi khác nhau nhưng vùng đất Ngọc Lặc đã có cư dân sinh sống khá sớm, có địa thế chiến lược quân sự trọng yếu, là nơi căn cứ của nghĩa quân Lam Sơn. Cũng từ vùng đất Ngọc Lặc nghĩa quân Lam Sơn dấy binh khởi nghĩa đánh thắng quân Minh xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc lập nên triều đại hậu Lê, một triều đại phong kiến thịnh trị nhất so với các triều đại phong kiến Việt Nam. Nên vùng đất Ngọc Lặc được các triều đại phong kiến Việt Nam ví như một viên ngọc quý phải lấy lụa và gấm vóc bọc chặt để cất kỹ hay viên ngọc quý phải được cất giữ như nhà vua cất giữ "triện" trong một cái ẩm. Tên gọi huyện Ngọc Lặc được xuất xứ từ đấy.

Thời Hậu Lê và thời Nguyễn cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 huyện Ngọc Lặc chia thành bốn đơn vị tổng, các tổng được gọi tắt bằng chữ đầu là: Tổng Ngọc (Ngọc Khê); Tổng Cốc (Cốc Xá); Tổng Hạt (Hạt Cao); Tổng Vân (Vân Am). Dưới tổng là các đơn vị cư dân cơ sở (xã, thôn, mường, làng, trang, trại) và có ông mường, ông cai, lý trưởng cai quản. Thời Nhà Nguyễn những đơn vị dân cư đông đúc được gọi là mường, làng hay còn do vị trí địa lý nhiều làng trong một khu vực địa lý thuân lợi thành lập thôn như thôn Mỹ Thi (nay là xã Mỹ Tân); thôn Cao Trị (nay là xã Cao Ngọc); thành lập xã như xã Thạch Yến (gồm mường Yến và một số làng lân cận thuộc xã Thạch Lập ngày nay). Những đơn vị dân cư ít hay mới đến khai hoang lập nghiệp gọi là làng, trang.

Sau Cách mạng tháng Tám đơn vị tổng được bãi bỏ và thay bằng các đơn vị xã, với quy mô nhỏ hơn. Từ năm 1946-1963 toàn huyện Ngọc Lặc được chia thành 12 xã là: Cao Khê; Đô Lương; Quang Trung; Ngọc Thắng; Minh Sơn; Lộc Thịnh; Kiên Thọ; Phúc Thịnh; Nguyệt Ấn; Phùng Giáo; Vân Am và Lương Ngọc.

Từ năm 1963 đến năm 1982 được chia tách thành 17 đơn vị hành chính: chia xã Cao Khê thành (Ngọc Khê, Mỹ Tân và Cao Ngọc); chia xã Đô Lương thành Thuý Sơn và Thạch Lập; chia xã Lộc Thịnh thành Lộc Thịnh và Đồng Thịnh; chia xã Ngọc Thắng thành Ngọc Liên, Ngọc Trung, Ngọc Sơn và thành lập thị trấn nông trường Thống Nhất, thị trấn nông trường Sông Âm, thị trấn nông trường Lam Sơn. Cũng trong năm 1963 cắt xã Lương Ngọc về huyện Thường Xuân (nay là xã Lương Sơn và Ngọc Phụng); cắt đất mường Kim Ơi xã Quang Trung về huyện Cẩm Thủy (nay là xã Cẩm Châu); cắt đất mường Ne làng Quan Trì thuộc xã Lộc Thịnh về xã Yên Lâm thuộc huyện Yên Định ngày nay.

Ngày 05 tháng 07 năm 1977 sáp nhập hai huyện Ngọc Lặc và huyện Lang Chánh thành huyện Lương Ngọc. Các đơn vị xã và thị trấn nông trường là: Thị trấn nông trường Sông Âm, thị trấn nông trường Lam Sơn, Vân Am, Cao Ngọc, Mỹ Tân, Ngọc Khê, Thuý Sơn, Thạch Lập, Quang Trung, Đồng Thịnh, Lộc Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Ngọc Trung, Minh Sơn, Kiên Thọ, Nguyệt Ấn, Phúc Thịnh, Phùng Giáo, Quang Hiến, Đồng Lương, Tân Phúc, Tam Văn, Giao An, Trí Nang, Yên Khương, Lâm Phú.

Đến năm 1978 thị trấn nông trường Thống Nhất được chuyển về huyện Yên Định quản lý về dân số nhưng đất đai vẫn thuộc huyện Ngọc Lặc quản lý.

Năm 1982 chia xã Lộc Thịnh thành xã Lộc Thịnh và xã Cao Thịnh; chia xã Minh Sơn thành xã Minh Sơn và xã Minh Tiến; chia xã Phùng Giáo thành xã Phùng Giáo và Phùng Minh.

Từ ngày 30 tháng 8 năm 1982, huyện Lương Ngọc dược chia thành huyện Lang Chánh và huyện Ngọc Lặc như hiện nay. Thời kỳ này huyện Ngọc Lặc có 20 xã. Ngày 03 tháng 06 năm 1988 Chính phủ CHXHCN Việt Nam quyết định thành lập thị trấn huyện lỵ Ngọc Lặc.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới doanh nghiệp nông lâm nghiệp. Thị trấn nông trường Lam Sơn, thị trấn nông trường Sông Âm giải thể và chuyển đất đai, dân số trước kia thị trấn quản lý về các xã quản lý. Trên cơ sở thị trấn nông trường Lam Sơn quản lý và tiếp nhận làng Minh Thuỷ (xã Minh Tiến) để thành lập xã mới.

Ngày 09 tháng 01 năm 2004 Thủ tướng Chính phủ CHXHCN Việt Nam ra nghị quyết số 15/CP về thành lập xã Lam Sơn.

Ngày 10-7-2019 HĐND tỉnh Thanh Hóa ban hành Nghị quyết số 186/NQ-HĐND về chủ trương sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã tỉnh Thanh Hóa. Huyện Ngọc Lặc nhập toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của xã Ngọc Khê (30,80 km2, 10.545 người), một phần diện tích tự nhiên, dân số của xã Thúy Sơn (0,86 km2, 2.110 người của các thôn Xuân Sơn, Ngọc Sơn), xã Quang Trung (1,74 km2, 1.386 người của các thôn Phố 1, Quang Hưng) vào thị trấn Ngọc Lặc (1,73 km2, 8.323 người). Sau khi sắp xếp thị trấn Ngọc Lặc có diện tích tự nhiên 35,13 km2, dân số 22.364 người. Xã Thúy Sơn có diện tích tự nhiên 30,28 km2, dân số 6.669 người. Xã Quang Trung có diện tích tự nhiên 23,20 km2, dân số 6.046 người. Sau khi sắp xếp, huyện Ngọc Lặc còn 20 xã, 1 thị trấn.

II. Điều kiện tự nhiên

Diện tích: Diện tích tự nhiên là 490,98 km². Phía Bắc giáp huyện Bá Thước và một phần huyện Lang Chánh; Phía Nam giáp huyện Thọ Xuân; Phía Đông giáp huyện Cẩm Thủy và Ngọc Lặc; Phía Tây giáp huyện Thường Xuân và Lang Chánh;

Địa hình: Địa hình phức tạp, đồi núi ở phía tây (chiếm 40,1% diện tích), đỉnh Lam Sơn (472 m), đồng bằng phía đông xen nhiều đồi gò. Sông Cầu Chày, Sông Âm, Sông Hép chảy qua.

Điều kiện xã hội:

Giao thông: Giao thông có quốc lộ 15A (Từ phố Lê Duẩn TT Ngọc Lặc tới giáp huyện Lang Chánh) và đường Hồ Chí Minh (Tráng tỉnh lộ 519 và đoạn QL 15A từ TT Ngọc Lặc tới Lam Kinh) chạy qua.

Hành chính: Gồm 1 thị trấn (Ngọc Lặc - huyện lị), 20 xã (Mỹ Tân, Thúy Sơn, Thạch Lập, Vân Âm, Cao Ngọc, Quang Trung, Đồng Thịnh, Ngọc Liên, Ngọc Sơn, Lộc Thịnh, Cao Thịnh, Ngọc Trung, Phùng Giáo, Phùng Minh, Phúc Thịnh, Nguyệt Ấn, Kiên Thọ, Minh Tiến, Minh Sơn, Lam Sơn); 213 thôn làng, khu phố (189 thôn làng, 24 khu phố).

Dân số (Dữ liệu Chi cục Thống kê cập nhật tháng 6 năm 2023): Tổng dân số 140.171 người, mật độ dân số 285.5 người/km2, thành phần dân tộc gồm: Mường 71,6%, Kinh 25,5%, Dao 1,3%, Thái 1,3%, dân tộc khác 0,3%, cách thành phố Thanh Hóa 76km. 

°